truyện ngắn kim lân
Truyện ngắn của Kim Lân: Vợ nhặt. Cập nhật ngày: 19/04/2020 lúc 00:41. VHSG- Nói tới nhà văn Kim Lân không thể không nhắc tới Vợ nhặt, truyện ngắn xuất thần của ông và hay bậc nhất văn học Việt Nam thế kỷ XX. VHSG xin trân trọng giới thiệu lại truyện ngắn đặc sắc này
Một trong những sáng tạo đặc sắc của nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt là đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt để chứng minh cho ý kiến trên Lớp 12 Lê Thúy 0
Chi tiết "Nồi cháo cám" trong truyện ngắn "Vợ nhặt" có thể xem là đầy dụng ý nghệ thuật và giàu tính nhân văn. "Vợ nhặt" là một truyện ngắn tái hiện lại cuộc sống cùng cực, thê thảm, nhưng không bế tắc của những con người sống giữa nạn đói năm 1945. Kim
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân nên truyện của ông thường xoay quanh những nếp sinh hoạt, cảnh ngộ, phong tục truyền thống của người nông dân Bắc Bộ.
Nêu tình huống truyện trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân, từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực trạng xã hội đương thời. Văn mẫu hay - Tài liệu ôn thi đại học - Đọc truyện ngắn hay vhoc.net Phân tích truyện ngắn vợ nhặt-Kim Lân.
Với truyện ngắn đặc sắc "Vợ nhặt" này, Kim Lân dường như đã bày tỏ sự yêu quý sâu sắc đối với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Tác phẩm thực sự đã khẳng định rằng 'cái đói khát, chết chóc không thể giết chết được niềm tin vào cuộc sống.
niradpunchef1974. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐAI HỌC SƯ PHẠM - TP HỒ CHÍ MINH ±±± ĐẶNG THỊ HUY LAM ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN KIM LÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PSG- TS TRẦN HỮU TÁ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH –2005 1 DẪN NHẬP I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Làng Chợ Dầu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh là mảnh đất lắm nhân tài, nhiều văn nhân. Chính mảnh đất tài hoa ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam hiện đại một nhà văn có tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1920. Nhà văn ấy sau này lấy bút danh Kim Lân. Nhắc đến các cây bút nổi tiếng viết về nông dân và nông thôn Việt Nam, không thể không nhắc đến Kim Lân. Ông đến với văn chương bằng sự say mê, ham thích như lời ông tâm sự “Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc” [19, 263]. Tuổi thơ cơ cực, chòu nhiều thiệt thòi, Kim Lân phải sớm vào đời để kiếm sống và ông viết văn cũng là để thể hiện mình. Kim Lân viết văn khi vẫn còn là một anh thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong. Kim Lân là người thông minh, ham hiểu biết và thích quan sát, do vậy ông đã tích luỹ được một vốn sống dày dặn, hiểu biết khá cặn kẽõ phong phú về nông thôn, đặc biệt là phong tục văn hoá của vùng Kinh Bắc quê hương ông. Vốn sống ấy giúp Kim Lân sau này có những trang viết độc đáo, hấp dẫn nhưng mộc mạc, bình dò như chính cuộc sống. Kim Lân trình làng văn bằng truyện ngắn đầu tiên Đứa con người vợ lẽ đăng trên tuần báo Trung Bắc chủ nhật 1942 và hơn hai mươi năm sau, ông có truyện ngắn cuối cùng Bà mẹ Cẩn 1969. Đến nay, đã lâu lắm rồi, Kim Lân không sáng tác nữa nhưng không ít độc giả vẫn tìm đến với các tác phẩm của ông vì nhiều lí do khác nhau. Cả đời văn, Kim Lân chỉ chuyên viết truyện ngắn và viết về người lao động nghèo với tất cả tấm lòng đôn hậu của người con sinh ra từ đồng ruộng. Trước Cách 2 mạng tháng Tám, Kim Lân tạo được tiếng vang trên văn đàn văn học bằng một loạt truyện ngắn viết về phong tục tập quán và thú chơi đồng quê - mảng đề tài mà ông am hiểu cặn kẽ. Các truyện nổi tiếng như Con mã mái, Đôi chim thành, Đuổi tà, Chó săn……... không chỉ giúp người đọc hiểu biết về những phong tục đất lề quê thói mà còn yêu mến hơn những con người bình dò, trong sáng mà tài hoa. Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của nhà văn. Ông có những trang viết xuất sắc về sự đổi thay trong nhận thức, tình cảm cũng như sự đổi đời của người nông dân, người lao động nghèo. Truyện ngắn Làng và Vợ nhặt là hai truyện ngắn viết sau Cách mạng tháng Tám. Đó là hai truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Hai tác phẩm này đã được tuyển chọn đưa vào dạy và học trong chương trình văn học ở các trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông bên cạnh những tác phẩm của các tác giả văn học lớn. Tuy viết không nhiều nhưng “Q hồ tinh bất q hồ đa”, Kim Lân được xem là người có biệt tài viết truyện ngắn và đóng góp nhiều cho thể tài này. Viết thay lời bạt trong Tuyển tập Kim Lân, nhà văn Trung Trung Đỉnh đã nhận xét độc đáo, sắc sảo về truyện ngắn Kim Lân “Những truyện ngắn Kim Lân thì quả là đặc sắc, tinh vi, ranh mãnh, dồn nén và cả đáo để nữa” [62, 645]. Một lời nhận xét như một sự gợi ý khiến người yêu văn học, nghiên cứu văn học thích thú khám phá mà kiểm nghiệm cho nhận xét độc đáo đầy gợi mở này. II. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI Để hoàn thành đề t luận văn, chúng tôi đã khảo sát và nghiên cưú truyện ngắn Kim Lân từ ba nguồn tài liêụ sau đây 1-Tuyển tập Kim Lân do Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1996. Gồm 17 truyện ngắn. 3 2- Kim Lân-Tác phẩm chọn lọc, ấn phẩm do nhà xuất bản Hội nhà văn mới phát hành năm 2004. Gồm 23 truyện ngắn, nhiều hơn Tuyển tập Kim Lân 6 truyện nhưng lại không có truyện Nỗi này ai có biết. 3- Truyện Cô Viạ- một truyện ngắn do chúng tôi vừa sưu tầm được từ baó Trung Bắc chủ nhật số 135, ngày 8-11-1942. Như vậy, tổng số tác phẩm Kim Lân được chúng tôi tập trung khảo sát và nghiên cứu là 27 truyện ngắn, trong đó có 13 truyện viết trước Cách mạng tháng Tám và 14 truyện viết sau Cách mạng tháng Tám. III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Những ý kiến, nhận xét về truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân đến với làng văn bằng một loạt các truyện ngắn như Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Người kép già, Cô Vòa….. … Đó là những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Nguyên Hồng - người bạn văn của Kim Lân đã nhận xét về những truyện ngắn Kim Lân thời kì nà trong Những nhân vật ấy đã sống với tôi rằng “Từ giữa năm 1943- 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim Lân. Thoạt nhiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy. … Nhưng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có một cái gì chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết, đặc biệt lại gần gũi với mình”[42,10]. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa hiện thực khách quan - nhà văn - tác phẩm, Nguyên Hồng đã có những nhận xét xuất sắc, chính xác cảø về phương diện nội dung, tư tưởng lẫn giọng điệu văn chương của Kim Lân. Văn của Kim Lân có cái gì rất gần gũi, bình dò. Đó là văn của một người viết về chính cuộc sống mình, hàng xóm mình. Kim Lân viết văn với ý nguyện rất đỗi giản dò như lời nhận xét của nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá trong Từ điển Văn học, tập 4 1 “Kim Lân quan niệm viết văn như cách đòi cho mình một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của quê hương”[113,369}. Trong Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1997, Vũ Dương Quỹ đã nhận xét khá sắc sảo về nội dung, tư tưởng của truyện ngắn Kim Lân “Những truyện ngắn Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám, bên những thân phận con người lam lũ vất vả, vẫn phập phồng trái tim yêu đời, những mong muốn tuy mơ hồ nhưng da diết, con người đối xử với nhau bao dung, nhân hậu hơn”. Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân được đánh giá cao khi viết về mảng đề tài sinh hoạt văn hoá và phong tục làng quê. Vũ Bằng khi đọc các truyện của Kim Lân đã khen và khuyên Kim Lân nên viết về thú chơi thôn quê. Các truyện Con Mã mái, Đôi chim thành, Đánh vật, Chó săn…...… lần lượt được đăng trên các Báo Trung Bắc chủ nhật và Tiểu thuyết thứ bảy. Nhận xét truyện ngắn viết về đề tài phong tục và thú chơi đồng quê của Kim Lân sau khi so sánh với truyện của các tác giả khác cùng chung đề tài, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng đònh rõ “ Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” và ông tiếp tục lí giải “Sở dó có sự hấp dẫn, không phải vì ở đấy, những tập quán ngộ nghónh kì lạ, những thú chơi phiền phức, cầu kì được trình bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã hiển hiện lên được những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [73, 64 ]. Kim Lân thật may mắn khi được sinh ra và lớn lên từ vùng quê Bắc Ninh, một vùng văn vật nổi tiếng của đất Kinh Bắc. Chất tài hoa, sự lòch lãm, nề nếp cổ xưa dường như in đậm dâú ấn trong văn chương của ông. Đọc truyện ngắn Kim Lân, chúng ta dễ bò cuốn hút bơỉ một thứ chất đồng bằng Bắc bộ kín đáo, dung dò và chín chắn. Truyện ngắn Kim Lân vì thế cũng rất có ích cho những nhà xã hội học muốn nghiên cưú, tìm hiểu về mảnh đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa. 5 Trong Tổng tập văn học Việt Nam, Nguyễn Đăng Mạnh một lần nữa nhận xét tổng quát hơn về đặc điểm truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám và tấm lòng nhân hậu của nhà văn “Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt giấy trắng chứa chất nhân thế, nhân tình, hoặc những trang tuy nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh nhưng vẫn biểu hiện được một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám - những người sống vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa”[73, 369]. Thành công của Kim Lân chủ yếu là do năng khiếu tài hoa và một vốn sống tự nhiên mà theo Nguyên Hồng - tác giả cuốn Bước đường viết văn năm 1970 đã từng khẳng đònh đó là một con người luôn luôn “Một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Những ý kiến đánh giá - nhận xét về truyện ngắn Kim Lân sau Cách mạng tháng Tám. Trên báo Văn nghệ số 34 1991, Trần Ninh Hồ đã có nhận xét thật xúc động “Tuy tầm vóc, vò trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời…... Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy không một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn truyện ngắn”. Đây có lẽ là lời nhận xét của một người hiểu và cảm nhận sâu sắc truyện ngắn Kim Lân để rồi thấy rõ vai trò, tác dụng của những tác phẩm ấy với hiện thực khách quan. Trong Tác giả văn học Việt Nam, tập 2, với cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan điểm lòch sử, Nguyễn Đăng Mạnh đã đưa ra những lời nhận xét thuyết phục về đặc điểm, vò trí của truyện ngắn Kim Lân “Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trò, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh của đất nước. Về đề tài này, Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những 6 truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [77, 49]. Như vậy, cũng giống bao văn nghệ só khác, Cách mạng đã đem đến cho Kim Lân cảm hứng mới, ý thức hơn về trách nhiệm nhà văn trước cuộc sống cũng như tầm nhìn, tầm nghó của chính bản thân. Truyện Làng được viết và in năm 1948 trên Tạp chí Văn nghệ số đầu tiên ở chiến khu Việt Bắc. Tác phẩm này nhanh chóng được khẳng đònh và là một trong số không nhiều truyện ngắn thành công sớm nhất của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp 1946-1954. Cùng với Đôi mắt cuả Nam Cao, Thư nhà của Hồ Phương, Làng của Kim Lân đã khai phá và mở ra những triển vọng tốt đẹp cho văn học kháng chiến chống Pháp. Làng là một truyện ngắn xuất sắc Kim Lân miêu tả và ca ngợi sự đổi mới về nhận thức và tình cảm của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám. Sau truyện ngắn Làng, Kim Lân tiếp tục nổi tiếng với Vợ nhặt. Tác phẩm được nhà văn viết với sự xúc động mãnh liệt từ nạn đói khủng khiếp của dân tộc năm 1945 - nạn đói đã cướp mất một phần mười dân số ít ỏi của Việt Nam lúc bấy giờ. Trong Tiếng nói tri âm viết 1994, Trần Đồng Minh đã đánh giá, khẳng đònh vò trí của truyện ngắn Vợ nhặt bằng sự so sánh văn học “ Kim Lân chọn bối cảnh ấy nạn đói 1945 cho truyện Vợ nhặt không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân, khiến ta khiếp sợ, rụng rời” [82,126]. Đặt trong mối liên hệ biện chứng và sự phát triển chung của văn học thời kì này, Vũ Dương Quỹ đánh giá chân xác “Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghóa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945” [89, 125]. Đúng vậy, truyện ngắn này không một dòng tố cáo mà sức mạnh tố cáo cứ dậy lên trên từng con chữ. Số phận bi thảm của những con người nghèo đói, 7 cuộc hôn nhân lạ lùng của Tràng chính là bản án đanh thép tố cáo tội ác hủy diệt của Pháp- Nhật. Trong Nghề văn cũng lắm công phu tái bản năm 2003, Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại tâm sự “Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn”. Theo cách nói của Nguyễn Khải, nhà văn Kim Lân được xếp vào hàng những nhà văn xuất sắc của thế kỷ XX. Chẳng thế mà Nguyễn Khải khi đọc Làng và Vợ Nhặt của Kim Lân đã ngạc nhiên mà thốt lên rằng “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”. Khẳng đònh về tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, Hà Minh Đức viết trong Nhà văn nói về tác phẩm “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc” [19,31]. Cả đời văn Kim Lân chỉ chuyên tâm viết truyện ngắn. Truyện của ông thường tập trung miêu tả sinh hoạt làng quê và hình tượng người nông dân. Nhưng thế giới nghệ thuật của ông không vì vậy mà bò giảm sức sống và sự hấp dẫn. Dù bao lớp bụi phủ mờ thời gian, truyện ngắn Kim Lân đã và đang có vò trí xứng đáng trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sau khi dừng lại ở một số ý kiến nhận xét, đánh giá đáng chú ý của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi thấy về cơ bản các nhà nghiên cứu đều có chung nhận xét Kim Lân chỉ chuyên viết truyện ngắn và viết không nhiều nhưng nói đến những nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc ở nước ta không thể không nhắc đến Kim Lân. Mặc dù Kim Lân được đánh giá là người có tài viết truyện ngắn nhưng những công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông còn quá ít ỏi và mới chỉ là những bài viết, những ý kiến nhận xét chung chung hoặc chỉ tập trung nhận xét về hai truyện ngắn Làng và Vợ nhặt. Thật sự chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng quát, 8 có hệ thống đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. Do đó luận văn chúng tôi không hẳn là hoàn toàn mới mẻ nhưng hi vọng sẽ góp thêm tiếng nói khẳng đònh vò trí xứng đáng của truyện ngắn Kim Lân trong văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn của chúng tôi đã tiếp thu, vận dụng những ý kiến, đánh giá của các nhà nghiên cứu, đặt chúng vào trong một hệ thống chung khi khảo sát, phân tích, nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Khảo sát và nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, trước hết có ý nghóa thiết thực cho việc dạy và học tác phẩm Kim Lân trong nhà trường phổ thông. Đồng thời nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân cũng chính là góp phần nghiên cứu phong cách một tác giả cụ thể của văn học Việt Nam hiện đại. Trên cơ sở khảo sát, phân tích và nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi hy vọng luận văn góp một phần nhỏ khẳng đònh vò trí, vai trò của Kim Lân đối với sự nghiệp phát triển truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Phương pháp lo hình Để có thể xác lập được những luận điểm, những nhận đònh có sức thuyết phục, luận văn sẽ chú ý tới phương pháp loại hình để phân loại, thống kê các số liệu cụ thể một cách có hệ thống. Tất nhiên chúng tôi hiểu rằng, mọi con số trong nghiên cứu văn học nói chung và nhất là nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn chỉ mang tính chất tương đối. Phương pháp so sánh Nhằm phát hiện, khẳng đònh bản sắc riêng của truyện ngắn Kim Lân, luận văn của chúng tôi không thể không so sánh đối chiếu đặc điểm truyện ngắn của Kim Lân với đặc điểm truyện ngắn của một số nhà văn khác cùng thời, cùng viết về nông dân và nông thôn Việt Nam 9 Phương pháp phân tích, tổng hợp. Đây là một phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung. Chúng tôi đã vận dụng phương pháp này để phân tích, tổng hợp từ cấp độ câu văn, đoạn văn có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm tổng hợp, trong luận văn. VI. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Cấu trúc luận văn ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, còn có phần nội dung gồm ba chương + Chương 1 Người lao động nghèo ở làng quê và tấm lòng của nhà văn Kim Lân. + Chương 2 Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật. + Chương 3 Ngôn ngữ và giọng điệu 10 Chương một NGƯỜI LAO ĐỘNG NGHÈO Ở LÀNG QUÊ VIỆT NAM VÀ TẤM LÒNG CỦA NHÀ VĂN KIM LÂN . Hiện thực về làng quê Việt Nam và người lao động nghèo. Xã hội Việt Nam những năm 1940 – 1945 có rất nhiều biến động. Đây là thời kì tiền khởi nghiã, là đêm trước của Cách mạng tháng Tám. Hơn nữa, Nhật nhảy vào Đông Dương cấu kết với Pháp đàn áp phong trào cách mạng, bóc lột nông dân nên mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, quyết liệt. Hoàn cảnh lòch sử - xã hội đầy biến động ấy đã tác động lớn vào tất cả các khuynh hướng văn học, trong đó có văn học hiện thực. Thời kì này, các nhà văn hiện thực không thể phản ánh xã hội một cách trực diện mà phải lưạ chọn cách đi riêng viết về phong tục, tập quán đòa phương, đi sâu vào mối quan hệ làng xóm, gia đình với những câu chuyện thường ngày, thông qua số phận cá nhân khám phá thế giới nội tâm con người. Bên cạnh những cây bút già dặn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, trên văn đàn đã xuất hiện một đội ngũ nhà văn trẻ như Nam Cao, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Tam Kính, Phi Vân, Mạnh Phú Tứ, Tô Hoài và Kim Lân….… Tuy nhiên, mỗi nhà văn ở mỗi hoàn cảnh, chòu sự ảnh hưởng của chủ nghóa Mác-Lê Nin ở mức độ khác nhau, có cách nhìn, cách cảm khác nhau. Do đó, các nhà văn khi viết về cuộc sống của dân quê đều có những cách tiếp cận riêng rẽ. Các nhà văn trên mỗi người một vẻ đã đem lại sự phong phú đa dạng và nhiều màu sắc mới cho văn học hiện thực 1940- 1945. Kim Lân cũng chọn và viết về đời sống của nông thôn Việt Nam nhưng ông không dẫm đạp lên lối mòn xưa cũ mà những đàn anh như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan đã đi. Kim Lân chủ yếu tiếp cận làng quê từ bình diện phong tục, sinh hoạt văn hoá và 11 những câu chuyện bình dò hằng ngày. Nhà văn đã có những trang viết mô tả rất chân thực, tinh tế và sống động những thuần phong mỹ tục của người làng quê sau luỹ tre làng. Ông đã làm cho truyện ngắn của mình có cách hấp dẫn riêng từ chính những khám phá các giá trò văn hoá cổ truyền của vùng đất Kinh Bắc, quê hương ông. Phong tục và sinh hoạt văn hoá làng quê Bất kì một nhà văn nào khi viết về hiện thực làng quê không nhiều thì ít đều đề cập, miêu tả đến những yếu tố phong tục, sinh hoạt văn hóa làng xã. Bởi vì phong tục tập quán là cái đời thường, là đời sống tinh thần tồn tại và chi phối cuộc sống của người dân quê trong suốt chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian. Trong văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, người đọc rất thú vò khi tìm thấy những nét văn hóa riêng biệt, những phong tục tập quán mang đậm sắc màu đòa phương trong các tác phẩm văn học. Đó là một Hải Phòng náo nhiệt trong tác phẩm của Nguyên Hồng; một vùng ven đô Hà Nội của nhà văn Tô Hoài; một Bùi Hiển với tập tục cổ hủ của người dân chài xứ Nghệ; một xứ Huế mộng mơ, dòu dàng, với giọng hò ngọt ngào của nhà văn Thanh Tònh và một vùng sình lầy tận cùng phía Nam Tổ quốc của Phi Vân. Kim Lân cũng góp một mảng màu vào bức tranh phong tục dân tộc bằng những nét văn hóa đặc trưng đậm màu sắc dân gian từ chính cuộc sống, sinh hoạt thường ngày của xứ sở Kinh Bắc quê hương ông. Truyện ngắn Kim Lân đã đem đến cho người đọc những thú vò bất ngờ và độc đáo. Tiếp cận hiện thực làng quê từ hướng phong tục, ông đã đưa những chuyện hàng ngày, những sinh hoạt văn hóa bình dò và cả những thói tục vốn có của làng quê nghìn đời trở thành đối tượng phản ánh và khám phá trong truyện ngắn của mình. Có thể nói trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân đã khẳng đònh mình trên văn đàn bằng những truyện ngắn viết về phong tục, sinh hoạt văn hoá làng quê. Chính sự tiếp cận này đã thể hiện ý thức nghệ thuật sâu sắc của nhà văn. Ý thức về giá trò văn hóa cổ truyền, ý thức bảo vệ, ngợi ca và tôn vinh sức sống, sức mạnh của văn hóa dân tộc Việt Nam. 12 Người Việt không ai không biết sự tích cây nêu nhưng tập tục đuổi tà trừ ma sống động, tươi rói sắc màu dân gian chỉ có thể được thưởng lãm qua trang viết của Kim Lân. Truyện ngắn Đuổi tà, ngay tựa đề cũng đã gợi lên sự tò mò về một tập tục kì lạ, ngộ nghónh nhưng lại rất quen thuộc của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Bằng sự quan sát sắc sảo, cái nhìn hóm hỉnh và cảm thông, Kim Lân dường như hoá thân vào trang viết. Ông miêu tả khá tỉ mỉ, tường tận từ việc sắp đặt đồ lễ cúng tế cho đến việc tiến hành lễ nghi. Việc đuổi tà hàng năm “có ảnh hưởng đến sự thònh đạt, suy vi của dân làng sang năm mới tới đây”. Rõ ràng đây là một thuần phong mó tục vì một mục đích cao cả, thể hiện ước muốn về một cuộc sống bình an, thònh vượng trong tương lai. Một tập tục đã trở thành cố hữu mà dân làng ai cũng vui vẻ đóng góp thì tập tục đó đã gắn bó, ăn sâu bám rễ vào đời sống tâm linh, đời sống tinh thần của người dân quê. Chẳng thế mà khi buổi lễ tiến hành, mọi người đều hào hứng tham gia “ông Tự Năm cầm cành phan chạy ra đường cái. Bốn cậu nhà oản với bốn chiếc bùa cái cũng lẽo đẽo theo sau. Mấy bác tuần vừa quất vừa ném gạo muối đuổi. Trẻ con, người lớn à à theo sau reo hò ầm ó. Có người lượm đất, gạch ném theo sau. Họ tin như thế là đang trục ma đói, ma khát ra khỏi làng, năm mới tới đây dân làng làm ăn mới thònh đạt ” [62, 133]. Đuổi tà không phải là một truyện ngắn có đề tài phục cổ như Bút nghiên của Chu Thiên, Thanh đạm của Nguyễn Công Hoan cũng không phải là tác phẩm có ý nghóa đả phá hủ tục như Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố. Cái hay của truyện ngắn Đuổi tà chính là tập tục độc đáo được Kim Lân miêu tả gắn liền với niềm vui, nỗi háo hức trong không khí thiêng liêng đón tết cổ truyền của dân tộc “Mọi người như yên lặng kính cẩn đón chờ cái năm mới rỡ ràng”. Yêu quê hương, gắn bó và tự hào về quê hương, nhà văn Kim Lân đã hiểu hết ý nghóa sâu sắc của tết Nguyên đán đối với mỗi người dân đất Việt. Tết là khoảng thời gian thể hiện đời sống tâm linh trong quan niệm tín ngưỡng đa thần của người Việt. Việc đuổi tà đầu năm là một thuần phong mó tục có ý nghóa nhân văn cao cả, là sợi dây vô hình gắn kết tình cảm của các thành viên 13 trong cộng đồng với một niềm tin thiêng liêng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân quê. Đi vào hiện thực làng quê từ bình diện phong tục, Kim Lân đã tiếp cận với con người làng quê mang bản sắc văn hóa làng truyền thống. Hình ảnh người nông dân trên trang viết của Kim Lân khác xa với hình ảnh người nông dân dưới ngòi bút miêu tả của Tự lực Văn đoàn. Họ không phải là những con người nghèo đói đến mức ngu dốt, bẩn thỉu như Nhất Linh đã viết trong Hai vẻ đẹp “Mỗi lần nhìn những người nhà quê nhem nhuốm ngồi bệt xuống đất, bên những đống rác hôi hám, hàng bán lèo tèo mấy thứ quà vặt bẩn thỉu, đầy cát bụi và mỗi lần ngửi thấy mùi quần áo, mùi mồ hôi người lẫn với trăm nghìn thức mùi khác ở các hàng xông lên, Doãn có cái cảm tưởng khó chòu về sự bất di bất dòch của những xã hội quê, bao giờ cũng khốn nạn, cũng xơ xác”. Đó là cái nhìn miệt thò có pha chút thương hại của tác giả Tự lực Văn đoàn. Những người vốn là các nhà văn Tây học, sống và lớn lên ở đô thò, trách sao được khi họ có cái nhìn phiến diện như thế đối với người nông dân. Do vậy tiểu thuyết luận đề mà họ đưa ra cũng chỉ mang tính chất cải lương nửa vời. Với Kim Lân thì hoàn toàn khác, ông viết về người nông dân bằng những tình cảm chân thật, tha thiết của “người con vốn sinh ra từ đồng ruộng”. Người nông dân trên trang viết của Kim Lân không chỉ là người lao động suốt ngày “đầu tắt mặt tối”, “cày sâu cuốc bẫm” mà họ còn là những con người thông minh, tài hoa, say mê, vui nhộn trong những sinh hoạt văn hoá, những thú chơi lành mạnh chốn hương thôn. Khác với những nhà văn cũng viết về phong tục như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, truyện ngắn Kim Lân trình bày miêu tả những sinh hoạt văn hóa ngộ nghónh, đáng yêu. Ở đó người đọc không bắt gặp cái lo âu, sợï hãi vì gánh nặng của lệ làng, của hủ tục. Người nông dân hòa vui vào không khí tưng bừng của lễ hội, đình đám để quên hết mọi âu lo, vất vả của cuộc sống thường ngày. Đọc truyện ngắn Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quag Khải - Trạng vật, Ông Cản Ngũ, người đọc cảm nhận một không khí làng quê nhộn nhòp, vui tươi khác xa với 14 làng quê nhàn nhạt buồn thường thấy trong các tác phẩm của Khái Hưng, Nhất Linh. Với tài viết truyện ngắn của mình, Kim Lân đã giới thiệu đến bạn đọc những chiêu võ đẹp, thế võ hay của môn đấu vật cổ truyền dân tộc. Hòa mình vào không khí lễ hội náo nức, sôi động để thưởng lãm, để bình xét. Hội vật tổ chức ở Kinh đô thì “cờ xí, tàn quạt rợp trời. Nam phụ lão ấu đứng vây quanh xem đông như kiến cỏ” [62,118]. Hội vật ở làng tỉnh cũng đông vui rộn ràng “Tiếng trống vật nổi lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Người ta chen lấn nhau, quây kín quanh sới vật” [62, 287]. Nếu tranh dân gian đấu vật của làng Đông Hồ là bức tranh tónh thì những trang viết của Kim Lân về môn vật lại là bức tranh động, rực rỡ sắc màu dân gian, rộn rã âm thanh, đa dạng về góc cạnh “Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đỏ rực. Các đô vật trong tỉnh cởi trần đóng khố ngồi hai bên xới. Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đậu trắng cạp điều. Người ông đỏ như đồng tụ, to lớn, lẫm liệt. Đầu ông buộc một vuông màu xanh lục giữ tóc, mình trần đóng khố, bao khăn vắt ” [62,288]. Không chỉ miêu tả chân thực, sống động cách thức, trang phục mà Kim Lân còn am hiểu cả cử chỉ, hành động đầy khí khái của đô vật“bước ra sới, xóc lại mảnh khố nhiễu xanh, tiến lên thềm tam đền, giơ bàn tay thô vụng vuốt dài trên mấy vuông giải nhất, miệng cừơi rất tươi ” [62, 288] là dấu hiệu thách thức, quyết tâm giành giải của đô vật trước khi vào kèo. Nếu ngòi bút Nam Cao chủ yếu thiên về kể hơn là miêu tả, Thạch Lam ngược lại tả nhiều hơn kể, thì Kim Lân lại khéo léo hài hoà vừa tả vừa kể. Những keo vật đẹp mắt, những thế vật bất ngờ hồi hộp được Kim Lân miêu tả như khắc như chạm. Ngòi bút của Kim Lân như một ống kính quay cận cảnh rõ nét đến từng chi tiết “ Quắm Đen như con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông bóc lên. Nhưng ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bỗng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ một con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy” [62,290]. Mượn ngôn ngữ điện ảnh, Kim Lân đã làm sống dậy trong lòng người đọc những cảm giác hồi hộp lo 15 âu, mừng vui như đang trực tiếp tham gia cổ vũ cho những keo vật đẹp mắt. Tác giả như hoá thân vào những đô vật để đem tới những cảm nhận rất thực “Trạng Sặc lúng túng xoay xoả. Chỉ một lúc là ù tai hoa mắt. Mồ hôi đổ ra như tắm. Chân tay cuống quýt, đánh gỡ lạo chạo. Trạng Kế nhanh cơ hội đưa tay phải lên bấu chặt lấy quai xanh, còn tay trái vít gáy kẻ đòch ghìm xuống. Trạng Sặc vùng vẫy cố gỡ nhưng không sao thoát được năm ngón tay như thép nguội kẹp chặt lấy xương quai xanh. Da dẻ trạng Sặc tái dần tái dần và toàn thân run lên bần bật” [62, 120]. Không am hiểu và yêu môn vật truyền thống, tác giả khó có thể miêu tả được như thế! Trân trọng nâng niu các giá trò văn hoá cổ truyền, Kim Lân không thể để mất đi những thú chơi lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc. Những truyện ngắn Kim Lân viết về môn võ vật như món quà quê giúp bạn đọc thưỡng lãm một thú chơi dân dã của người Việt, vừa để cổ vũ khích lệ cho môn vật cổ truyền của dân tộc. Truyện Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng vật, Ông Cản Ngũ là những truyện ngắn Kim Lân lấy cảm hứng từ đề tài lòch sử, với tinh thần suy tôn những gía trò văn hóa dân gian đậm màu sắc dân tộc. Cách khai thác truyện thông minh, tài hoa, kết hợp hài hoà giữa qúa khứ và hiện đại, ngôn từ vừa trau chuốt, vừa giản dò bình dân đã đem đến cho những truyện ngắn trên của Kim Lân vẻ đẹp riêng độc đáo. Kim Lân là người con của xứ sở Kinh Bắc, được thụ hưởng và nuôi dưỡng bởi dòng sữa ngọt của văn hóa làng quê, ý thức về giá trò văn hoá cổ truyền luôn tuôn chảy trong sáng tác của ông. Kim Lân hiểu việc cần phải làm để giữ gìn và phát huy văn hoá cổ truyền của dân tộc. Ngoài những truyện ngắn viết về đánh vật, Kim Lân đi sâu thể hiện những thuần phong mó tục qua những thú chơi đồng quê khác như trồng cây cảnh, nuôi gà chọi, thả chim bồ câu Có thể nói các truyện ngắn Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn là những truyện ngắn thành công nhất viết về đề tài này. Nhận xét những truyện ngắn viết về các thú chơi của Kim Lân, nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá trong Từ điển Văn học khẳng đònh “Tuy nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ 16 đẹp tâm hồn của người dân trước Cách mạng- những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh và tài hoa” [113,360]. Truyện ngắn viết về phong tục và các thú tiêu khiển nếu không khéo sẽ dễ sa vào những trang khảo cứu. Khác với Toan nh, Kim Lân không khảo sát phong tục mà mô tả phong tục bằng con mắt cuả một nhà văn. Đằng sau những sinh hoạt văn hóa, những thú chơi đồng quê là cuộc sống sinh động như vốn có, chằng chòt nhiều mối quan hệ trong cộng đồng làng xã. Truyện ngắn Kim Lân viết về đề tài trên mang phong vò riêng độc đáo, hấp dẫn bởi vì trong đó còn có sự thấp thoáng, ẩn hiện “cái tôi” nhà văn tài hoa, thông minh hóm hỉnh. Trong An ninh cuối tháng số 34 – năm 2004, trả lời phỏng vấn báo chí, Kim Lân cho rằng “Trước tôi cứ nghó những truyện mà tôi viết có tính chất xã hội thì tôi cho là hay. Còn những truyện mà viết những cái chơi chim, chơi gà, chơi chó săn, chơi này nọ là không hay. Thế nhưng, bây giờ tôi đọc lại cái mình viết về chim, về chó lại tử tế vì mình hiểu nó và yêu nó”. Thật vậy, truyện viết về thuần phong mó tục qua các thú chơi đồng quê, Kim Lân viết bằng tất cả vốn sống dày dặn, sự tài hoa và đam mê nhiệt tình của mình. Nhà văn hóa thân, nhập vai vào nhân vật khá tài tình khiến người đọc băn khoăn tự hỏi đâu là nhân vật, đâu là nhà văn? Ở truyện ngắn Con mã mái, là hình ảnh ông cả Chuẩn - một nhà nho nghèo “danh lợi bất như nhàn” yêu thích thú chơi cây cảnh nhàn nhã thanh tao. Tuy gia cảnh nghèo túng, chỉ có một “mảnh sân nhỏ, ba gian nhà tranh lụp xụp” nhưng “bần thanh còn hơn trọc phú”. Với bàn tay khéo léo, óc thẩm mó và tài sáng tạo, ông đã tạo nên “một hòn non bộ sần sùi, gân guốc. Cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu, bí mật đối với bọn người sành nhỏ bé đặt theo điển tích. Nào chùa, nào tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở, nào ngư, tiều, canh, độc, cầm kì thi tửu, nào Bá Nha ngộ Tử Kì, tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài” [62,58]. Một thế giới ảo nhưng sinh động kì thú. Sơn, thuỷ, canh, tiều, ngư, độc, cận kề sum vầy bên nhau. Cảnh vật dẫu vô tri vô giác nhưng sống động bởi gửi gắm vào đó tâm hồn tình cảm của chủ nhân. Cả Chuẩn nếu không có tâm hồn nghệ só yêu cái đẹp, am hiểu nghệ thuật thì làm sao có 17 thể tạo nên được một hòn non bộ đẹp như thế. Rồi lại còn tạo một dáng cây “kiểu long cuốn thuỷ” mà ai cũng trầm trồ thán phục. Trong truyện ngắn của Kim Lân, ta bắt gặp hình ảnh người nông dân không chỉ biết “cày sâu cuốc bẫm” vì cơm no áo ấm mà ở họ còn dậy lên một khát vọng mãnh liệt về cuộc sống tinh thần phong phú, lành mạnh và tươi đẹp. Cuộc sống trở nên đáng yêu, có ý nghóa hơn khi Cả Chuẩn, Trưởng Thuận, Cả Nội đặt hết niềm tin vào thú chơi cầu kì, công phu của mình. Ông Cả Chuẩn “mê thích gà chọi suốt ngày chỉ lăn lóc với gà”, Cả Nội “nổi tiếng là tay chơi chó săn lão luyện” còn Trưởng Thuận thì khéo léo tài hoa trong cách nuôi và thả chim bồ câu. Dường như những người nông dân này đã gửi gắm tất cả niềm vui, nỗi buồn vào các thú chơi tao nhã, lành mạnh như những nghệ só trong sáng tạo nghệ thuật. Cụ Tú, ông Trưởng Thuận tinh từơng, tài nghệ ngay từ việc lựa chọn giống chim hay “Tinh! Trưởng Thuận tinh lắm! Cào bò ấy kháp với nhau không tách ra được. Ngừng một chút, cụ Tú tiếp Phàm giả cái giống chim Văn Giàng này cứ con nào “cào” nhọn là bay cao, con nào “bò” to là đông đen. Đôi chim này được cả “cào” lẫn “bò” [62,36]. Sự khen thưởng, thán phục của cụ Tú chính là sự đồng điệu của nhân vật cụ Tú, ông Trưởng thuận và cả nhà văn Kim Lân. Họ gặp nhau ở điểm chung đều say mê, tài hoa, am hiểu tường tận thú chơi tao nhã. Chỉ ngắm nhìn mã bên ngoài của đôi chim mà biết được lối bay, cái hay cái dở của giống chim Văn Giàng. Chơi chim bồ câu đòi hỏi người chơi phải là người kiên nhẫn, lanh lẹ, khéo léo. Hãy quan sát cách thả chim của Trưởng Thuận “Đặt lồng chim xuống vệ đường, ông Trưởng cởi dây, rút ống nước đâu đấy, rồi mới quày tay ra sau lưng rút chiếc quạt cạp quần, se sẽ đập vào nan lồng. Đàn chim xô về một phía. Đập mạnh thêm mấy chiếc nữa, ông mở bật nắp lên. Đàn chim bay ra một loạt, cánh vỗ phanh phách” [62, 39]. Bằng sự quan sát và vốn sống thực tế, Kim Lân đã cho người đọc thấy được sự điệu nghệ, khéo léo trong cách thả chim của Cả Thuận. Bởi nếu không biết cách thả“một hai con chim sẽ bò vướng vào lồng hoặc do chủ nhân đập mạnh vào lồng, con chim có 18 thể bò choáng váng đứng lại ở đế lồng không bay kòp theo đàn, lẽ tất nhiên đàn chim này không bao giờ trúng giải” [1,198]. Thả chim bồ câu là một thú chơi có từ xa xưa. Các cụ ta ngày xưa yêu chuộng thú thả chim bồ câu vì chúng là loại “nghóa điểu” trung thành, có tình có nghóa. Hội thi thả chim bồ câu là một thú chơi đồng quê có ý nghóa giáo dục sâu sắc và tế nhò về tinh thần tập thể, về đức tính chung thuỷ của con người. Vì lẽ đó Kim Lân say mê và muốn san sẻ niềm đam mê ấy để mọi người cùng thưởng thức về thú chơi thanh tao này. Xưa nay, trong các tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam, người đọc thường chỉ thấy hình ảnh người nông dân lam lũ, nghèo khổ và dốt nát. Bên cạnh cuộc sống đói nghèo của họ, Kim Lân phát hiện ra đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh của họ. Nhà văn không hề tô hồng, trau chuốt hình ảnh người nông dân trên trang viết của mình. Ông viết rất thật về họ như viết về chính bản thân mình. Kim Lân viết từ vốn sống, sự am hiểu, gắn bó gần gũi của một người con làng quê với những người làng quê. Có thể nói, Kim Lân là cây bút truyện ngắn gắn bó sâu sắc và am hiêủ tường tận cuộc sống nông thôn, truyện của ông thường giàu chất liệu hiện thực. Cảnh nông thôn với không khí sinh hoạt văn hoá đầm ấm, đậm đà tình làng nghóa xóm hiện lên bình dò trong từng trang viết của ông. Ngay sau khi “cái tiếng quần chim của Trưởng Thuận ăn khao liên tam trúng, nức cả hàng phủ”, dân làng kéo đến nhà ông Trưởng rất đông “họ cười nói xôn xao cả năm gian nhà khách”. Cũng như nhà Trưởng Thuận, nhà ông Cả Chuẩn trước khi chuẩn bò đem gà đi thi “hội Nhân Thọ”cũng nườm nượp “khách mỗi lúc mỗi thêm đông”. Gian nhà tuy lụp xụp, chật chội nhưng vui vẻ ồn ào “tiếng cười, tiếng nói xôn xao ầm ó”. Dẫu cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, vất vả nhưng đời sống tinh thần của người dân quê thật phong phú, tươi tắn. Họ có thể ngồi “ngửa mặt lên trời xem mê man” và say sưa ngắm nhìn đàn chim bay “quên cả sức nóng thiêu người của trưa mùa hạ”. Họ có thể mải mê bàn tán chuyện chọn gà, chăm gà, luyện gà trong một không khí vui vẻ, giòn giã tiếng cười hóm hỉnh “ Con sám miến hồng mới thích chứ. Chết! Nó đá cứ vun vút “liên chi thanh nguyệt chi công”. Nhắc chân lên là 19 thành cần cao. Đầu cong thon thon né đòn rất tài,… chao bên này! Chao bên này! Cứ thoăn thoắt ! Coi sướng lạ !” [62,85]. Ở đây, người đọc bắt gặp trong trang viết của Kim Lân hình ảnh người nông dân hiền lành, chất phác nhưng không kém phần thông minh, tài hoa và dí dỏm. Tiếp cận hiện thực làng quê từ bình diện phong tục, Kim Lân đã khẳng đònh sức sống của truyền thống đạo lý dân tộc qua những sinh hoạt văn hoá làng quê. Kim Lân hiểu rằng nền tảng gia đình là gốc rễ, là điều kiện để người dân quê thực sự sống với niềm vui của chính mình qua những thú chơi tao nhã. Ở truyện Con mã mái, nếu không có sự chòu thương chòu khó của bà Cả và cô Tưởng thì làm sao ông Cả Chuẩn “mê gà chọi” sống hết mình cho thú chơi ấy. Hình ảnh bà Cả Chuẩn không khỏi làm người đọc liên tưởng đến hình ảnh người vợ chu toàn, đảm đang “nuôi đủ năm con với một chồng” của Tú Xương. Trong hơn 37 trang sách của truyện, Kim Lân chỉ dành một câu nói về bà “Đầu tối mặt tắt, ngược xuôi tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình”[62,60]. Chỉ một câu cũng đủ ca ngợi đức tính chòu thương chòu khó, cần mẫn của bà Cả Chuẩn. Với phong cách của một nhà văn phong tục, Kim Lân hiểu rất rõ cái tình, cái cội rễ lâu bền trong truyền thống tình cảm, đạo lý phu thê của người Việt. Nếu không có sự tận tụy, hi sinh của vợ làm sao Cả Chuẩn thảnh thơi để tiêu khiển bên cây cảnh và thú chọi gà. Ở truyện Đôi chim thành, bà Trưởng Thuận cũng vậy, chưa bao giờ than vãn trước thú chơi chim bồ câu đến quên ăn, quên nghỉ của Cả Thuận. Nếu có cũng chỉ một câu trách móc nhẹ nhàng, chứa chan tình yêu thương dành cho chồng “Chim với chả cò. Đày nắng suốt ngày, không trách cảm được!”[ Từ tình cảm, quan hệ trong gia đình, Kim Lân đi sâu khám phá tình cảm cộng đồng, tình làng nghóa xóm vốn bền chặt của người nông dân ở làng quê qua hội hè và những thú vui tiêu khiển. Trong truyện Đôi chim thành, ông Trưởng Thuận dẫu biết trời hôm đó chắc sẽ có dông vì trời xấu “vừa oi vừa có gió Tây”, tiết trời như thế nếu thả chim, mưa gió có thể làm đàn chim lạc mất. Nhưng vì nể nang tình cảm chân tình, 20 ngưỡng mộ quần chim hay của bà con dân làng, ông đã “không ngần ngại thả đàn chim” để mọi người được thưởng lãm và bình giá. Việc làm của Cả Chuẩn thể hiện nét đẹp trong cư xử thân tình của người dân quê. Tình cảm tốt đẹp đó của người làng quê được Kim Lân thể hiện sắc sảo không phải chỉ bằng sự quan sát tinh tế mà bằng cả tâm hồn và trái tim nhân hậu của một người con sinh ra từ đồng ruộng. Trong bức tranh phong tục dân gian với những tập quán ngộ nghónh, những thú chơi tao nhã như đánh vật, chọi gà, thả chim, nhà văn Kim Lân đã thể hiện niềm tự tôn, tự hào về văn hoá cổ truyền của dân tộc một cách kín đáo và tinh tế. Truyện ngắn của Kim Lân đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về sợi dây ràng buộc giữa những thành viên trong cộng đồng làng xã qua sinh hoạt văn hoá, qua những phong tục tập quán. Đây chính là nét riêng độc đáo của Kim Lân so với các nhà văn cũng tiếp cận làng quê từ hướng phong tục. Kim Lân theo thời gian, không gian của những làng quê thân quen để tìm hiểu con người, đời sống tinh thần của người dân quê qua lối cũ nếp xưa nhuần nhụy. Chẳng thế, mà trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, Lữ Huy Nguyên đã đánh giá “Kim Lân là người đã thành công trong một loạt truyện về thú chơi. Đặc biệt ông nổi tiếng với các truyện viết về phong tục làng quê” [62,19]. .Những mảnh đời “đầu thừa đuôi thẹo” Con người bao giờ cũng là đối tượng chính trong tác phẩm văn học. Cuộc sống thiên hình vạn trạng, niềm vui luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng tối và cái xấu len lỏi giữa cái tốt, hạnh phúc xen lẫn nỗi đau. Và những khổ đau, bất hạnh của con người xưa nay vốn là nỗi bức xúc lớn nhất thôi thúc người nghệ só cầm bút. Kim Lân đã bước vào con đường văn học với một sự thôi thúc như thế. Khi Kim Lân đến với văn chương chính là lúc xã hội Việt Nam ngột ngạt, bế tắc và đầy biến động. Đời sống người nông dân khốn đốn trăm bề. Nạn đói, nạn sưu thuế, lũ lụt, hạn hán, dồn dập ập xuống thân phận bé nhỏ của ngừơi lao động nghèo. Xuất thân trong 21 một hoàn cảnh éo le, con một người vợ lẽ thứ ba nghèo túng, không ruộng đất, làm thuê làm mướn khắp nơi, Kim Lân ý thức rất rõ về cuộc sống mòn mỏi, lắt lay, cơ cực của những người lao động nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Nhà văn chú tâm vào những cảnh đời cụ thể, chọn một khoảng khắc tiêu biểu trong cuộc sống của nhân vật để miêu tả nhưng chất liệu hiện thực cứ ngồn ngộn trong từng trang viết của ông. Kim Lân đã đem đến cho người đọc sự cảm thông, tình yêu thương xen lẫn nỗi chua xót, đắng cay về thân phận của những con người bé nhỏ dưới chế độ cũ. Ông thấy rõ họ là “ Những con người bò cái đói nghèo đoạ đầy cho đến thành tàn tật, thành ngớ ngẩn”. Kim Lân sáng tác truyện ngắn của mình bằng cảm hứng dạt dào yêu thương của một trái tim nhận hậu và tấm lòng rộng mở vì những người lao động nghèo. Truyện ngắn của ông đúng như lời nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh “Là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ khắp các xó xỉnh tối khuất lên mặt giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân tình” [73,369]. Đứa con người vợ lẽ là truyện ngắn đầu tay, khẳng đònh chỗ đứng của nhà văn trên văn đàn. Tác phẩm mang tính chất tự truyện. Cuộc đời đói nghèo, thận phận hẩm hiu của mẹ con Tư chính là phiên bản về cuộc đời, thân phận của hai mẹ con nhà văn. Mẹ của Tư là người phụ nữ cần mẫn, chòu thương chòu khó nhưng lại là nạn nhân của chế độ đa thê. Bà là người vợ lẽ thứ ba, cuộc hôn nhân của bà không có tình yêu. Thân phận lẽ mọn của chế độ đa thê đã cay cực, tủi nhục mà ngay đến con cái họ cũng bò ruồng bỏ hắt hủi. Tư sống giữa gia đình mà như không có gia đình, anh em, họ mạc đều thờ ơ với Tư. Cái đói quay, đói quắt không chỉ hành hạ Tư về thể xác mà còn xoáy sâu vào tâm can Tư một ý nghóa chua chát về thân phận bèo bọt của mình “Làm một thằng con người vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là một thằng thừa trong gia đình” [62, 27]. Quả là cuộc đời thật oái oăm ! Hiện thực cuộc sống luôn hiền hòa, ưu ái với một số ít người giàu sang nhưng lại khắc nghiệt, tàn nhẫn với số đông người nghèo. Chính cuộc đời khổ đau, chòu thiệt thòi như nhân vật trong tác phẩm tự truyện này, mà 22 Kim Lân đã ý thức sâu sắc hơn về thân phận cơ cực của những ngừơi lao động nghèo trước Cách mạng. Từ thân phận hẩm hiu của mẹ mình, Kim Lân thấu hiểu và thông cảm với số phận của những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội cũ. Họ là “nô lệ của nô lệ”, họ thường là nạn nhân của chế độ đa thê bò tước đoạt quyền quyết đònh hạnh phúc của mình. Không chỉ những thân phận làm lẽ phải chòu thiệt thòi cay đắng, mà ngay cả khi làm vợ cả cũng phải chòu bao nhiêu tủi nhục vì số phận hẩm hiu. Đó là tình cảnh của Cẩn trong truyện ngắn Bà mẹ Cẩn. Cuộc đời chồng con của Cẩn chòu nhiều đau khổ, dở dang. Người ta cưới Cẩn về không phải để làm vợ, mà thực chất làm một con hầu không công. Chồng Cẩn là “Một thằng bé sún răng và mũi lúc nào cũng chảy tận mồm”[62, 509]. Suốt ngày Cẩn quần quật, đầu tắt mặt tối lo hầu hạ bố mẹ chồng, chăm bẵm chồng. Đến khi chồng trở thành “anh lực điền, khoẻ mạnh” lại chê Cẩn già xấu xí, “bỏ đi cưới vợ lẽ”. Trong một lần, ngoài ý muốn, người chồng đã để lại cho Cẩn một đứa con. Thế là Cẩn phải chòu bao nhiêu khổ sở vì đòn ghen tuông trái ngược của người vợ lẽ. Chế độ đa thê và nạn tảo hôn là cái ách đã trói buộc cuộc đời Cẩn vào trong khổ đau, nhục nhã. Tiếp nối mạch cảm xúc về những mảnh đời khổ đau của người phụ nữ là nhân vật cô Vòa trong truyện ngắn cùng tên. Vòa chòu nhiều thiệt thòi, thiếu thốn tình cảm gia đình ngay từ lúc còn bé nhỏ. Mẹ chết, cha lấy kế mẫu. Cô phải sống kiếp mẹ ghẻ con chồng, bò hành hạ khổ sở “dưới quyền hành độc ác” của người mẹ kế. Năm 10 tuổi, người cha - chỗ dựa tinh thần của cô cũng rời bỏ cô sau một trận ốm ngã nước “rừng thiêng nước độc”. Mới 10 tuổi đầu, cô bò đánh đập hành hạ “da diết suốt ngày”, cơm ăn không đủ no, đêm ngủ không tròn giấc. May nhờ có ông anh họ đem về cưu mang. Rồi cô cũng có một gánh hàng xén nho nhỏ tuy không dư dả cũng đủ nuôi sống qua ngày. Nhưng sự đời nào đâu có thể bình lặng với những ước muốn, khát khao bình dò của cô. Thiếu thốn tình cảm gia đình từ thû nhỏ, cô khao khát một mái ấm gia đình. 23 Nhưng cô đã rơi vào bẫy tình của một chàng họ Sở. Cú sốc bò lừa tình đã cướp hết ở cô cái xuân thì tuổi hai mươi. Cô trở nên thân tàn ma dại “Mắt trắng dã giương lên lại nhìn xuống, da vàng xủm bấm ra nước. Cái váy đụp cũn cỡn để hở mấy vết chó cắn. Nước vàng rỉ ra loang lổ đọng lại trên cặp chân gầy guộc” [53, 25]. Nhưng nấc thang về cuộc đời khổ đau của Vòa chưa dừng lại ở đó. Sau lần vấp ngã, cô được gia đình anh họ tìm về lo lắng thuốc thang, cô luôn có ảo tưởng được làm vợ Phán Đường, sống một cuộc sống giàu sang, hạnh phúc. Nhưng khát khao của cô cũng chỉ là một giấc mơ, nó cũng giống như lời nói đùa của Ứng, không bao giờ là sự thật. Con đường tìm đến hạnh phúc gia đình tắt ngấm, cô trở nên điên dại. Bộ dạng lúc nào cũng lôi thôi lếch thếch, miệng nghêu ngao hát “Ăn mày là ai ? Ăn mày là ta. Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày, xừ xang xê ứ ư ...” [ 53,25]. Truyện kết thúc trong cái chết tội nghiệp của Vòa trên con đường kiếm tìm hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc của một mái ấm gia đình. Cái chết của Vòa như một hồi chuông nguyện cầu hãy rủ lòng yêu thương con người. Nếu không có tình yêu thương, con người sẽ dễ dàng rơi vào hố thẳm chông chênh của cái chết mà lằn ranh mỏng manh là kiếp sống ăn mày lang thang. Có thể nói, nhân vật nữ trong truyện ngắn Kim Lân đại diện cho những mảnh đời xót xa, cay đắng của phụ nữ nông thôn bò “quan niệm”, lề thói xã hội “ăn cắp” mất bản ngã của mình. Hiện thực cuộc sống đa dạng phong phú, nên có khá nhiềâu “lát cắt”, khá nhiều những mảnh đời khổ đau khác nhau trong truyện ngắn Kim Lân. Dường như các nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” đều gửi đại diện của họ vào trong truyện ngắn của Kim Lân. Ở truyện Anh chàng hiệp só gỗ những mảnh đời khốn khó được hiện lên qua giọng văn đầy trăn trở, yêu thương của nhà văn. Đó là cảnh đời cô đơn, nghèo khó của ông lão làm nghề múa rối rong. Năm tận tháng cùng, một mình côi cút thân già “đẩy cái xe gỗ lọc cọc đi tha phương cầu thực”. Đó là nỗi niềm ai oán, cùng cực của 24 lão ăn mày mù loà. Lão có một con chó vàng rất khôn ngoan. Ngày ngày con chó “vẫn dắt ông lang thang khắp chợ ăn xin, đêm về hai thầy trò lại ôm nhau ngủ dưới gốc đa ngoài quán trọ” [62,35]. Con chó là người bạn chung thuỷ của ông, cùng ông kiếm sống và giúp ông vượt qua những tháng năm cuối cùng của tuổi già. Nhưng một “kẻ ác tâm nào đó” đã đánh bả con chó của ông lão “cướp đi cái nguồn sống và tình yêu thương cuối cùng của con người tàn tật ấy”[62,35]. Tài năng của một nhà văn thường là ở chỗ cảm được, nghe được, nhìn thấy được ý nghóa sâu xa trong những việc bình thường nhỏ nhặt. Đúng vậy, truyện ngắn Kim Lân không viết về những vấn đề to tát mà truyện của ông bắt nguồn từ những cái vụn vặt, bình thường trong cuộc sống của người lao động nghèo. Nhưng chính từ những cái bình thường, vụn vặt ấy lại là những cái chân thực nhất của cuộc sống. Truyện của Kim Lân vì thế đem đến sự gần gũi và đồng cảm sâu sắc. Đó cũng chính là nét độc đáo, hấp dẫn riêng của tác phẩm Kim Lân. Trước Cách mạng tháng Tám, thân phận bé nhỏ của người lao động nghèo trở nên rẻ rúng, khốn khổ hơn trong cảnh đói. Cái đói đeo bám, hành hạ họ khổ sở về mặt thể xác, đắng cay về mặt tinh thần. Ngô Tất Tố, Nam Cao có nhiều tác phẩm viết về cái đói. Trong những truyện ngắn Một ổ chó và một đứa con, Cái bánh chưng, Mớ rau trong hòm, Ngô Tất Tố viết cảnh đói khát tuyệt vọng ở quê hương ông. Nhà văn cất lên tiếng kêu đầy đau xót phẫn nộ hãy cứu đói cho người nông dân. Với những truyện ngắn Một bữa no, Tư cách mõ, Trẻ em không ăn được thòt chó, Nam Cao đã viết về miếng ăn của những người đói. Và tác giả đã gióng lên hồi chuông hãy cứu lấy nhân phẩm, nhân cách con ngừơi đang bò cái đói và miếng ăn huỷ hoại, tha hóa đi. Truyện ngắn Kim Lân cũng xoay quanh nỗi khốn khổ vì đói của những người lao động nghèo, những người nông dân thấp cổ bé họng. Cái đói trong truyện ngắn Ngô Tất Tố, Nam Cao làm chúng ta xót xa thương cảm. Cái đói và cái chết trong trên ngắn Kim Lân lại làm ta rụng rời, khủng khiếp.
Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ông Hai thu que đóm cháy lập lòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và bà Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc, lầm bầm tính toán những tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo… thì ông Hai vùng dậy, sang bên bác Thứ nói chuyện. Không hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nằm nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là cái tiếng rì rầm tính toán tiền nong của mụ vợ, tự nhiên ông sinh ra nghĩ ngợi vẩn vơ, nó bực dọc làm sao ấy. Mà ông, thì không thích nghĩ ngợi như thế một tý nào. ông vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay. Không đi cày đi cuốc, không gánh phân tát nước thì ông cũng phải bày vẽ ra công việc gì để làm đan rổ, đan rá hay chữa cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp. Từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày mấy bố con nhong nhóng ngồi ăn, tối đến lại nghe những tiếng rì rầm tính toán ấy, ruột gan ông cứ nóng lên như lửa đốt. ông phải đi chơi cho khuây khỏa. Lần nào cũng như lần nào, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá bên gian bác Thứ là ông lão hỏi ngay “Thế nào, hôm nay có gì không bác?” Không đợi trả lời, ông lão nói luôn-Này Đácgiăngliơ nó lại về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào! Còn là đi đi về về!Hoặc-Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập và Thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được Độc lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình lại không Thống nhất, Độc lập được hở bác? Rồi ông nói đến chuyện tản cư, chuyện Tây khủng bố, chuyện Việt gian, chuyện thổ phỉ… những chuyện ông lượm được hồi trưa, ở ngoài điếm. Cả chuyện chính trị, quân sự nữa. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả. Ông lão kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm-Cũng là học lỏm cả thôi đấy bác ạ… Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà… Và cuối cùng, khi câu chuyện tin tức hàng ngày đã nhạt rồi, thì ông xoay đến chuyện cái làng của ông. ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông Hai vẫn có tính khoe làng như thế xưa nay. Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có lăm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông nhiều cơ mà!” Mỗi bận có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông lão cũng phải dắt ra xem lăng cho kỳ được. ông mê man giảng giải cho họ cái tượng đá này là ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải. Cái ông đắp bằng xi măng lù lù ở giữa hồ bát giác kia là là… lấy kiểu tận xa lắm, đâu như tận bên chùa Đế Thích. Còn như cái cọc sắt nhọn hoắt cắm vào cái bầu rượu có đắp bốn con giơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần kia là máy thu lôi. Khiếp lắm! Sấm sét là thu tất cả vào trong nguyên là “cụ tôi” phòng sau này nằm xuống bất hạnh sét có đánh phải cũng không việc gì mà. Xem! Trí lực của người ta có khiếp không?
Làng Kim Lân Buổi trưa hôm ấy ông Hai ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ chưa thấy về. Hai đứa bé thì ông bắt chúng nó ra vườn trông mấy luống rau mới cấy lại chẳng gà vặt hết. Ông Hai hì hục vỡ một vạt đất rậm ngoài bờ suối từ sáng đến giờ, ông tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn[1] ăn vào những tháng đói sang năm. Có một mình, ông phải làm cố, hai vai ông mỏi nhừ. Ông nằm vật trên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. Ồ, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt[3] lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá. Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt sân sáng loá, có mấy tiếng gà trưa cất lên eo éo. Gian nhà càng như lịm đi, mờ mờ hơi đất. Giờ này là mụ chủ sắp đi làm đồng về đây. Ông lại sắp phải nằm trong này mà nghe mụ chửi con mắng cái, kêu vại nước chóng cạn, cái bếp bừa bộn nheo nhéo lên đây. Tấm liếp che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng bừng lên. Ông Hai giật mình, ngóc đầu nhìn ra. Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không bước vào. Ông cất tiếng hỏi – Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày? Không để đưa con kịp trả lời, ông lão nhỏm dậy vơ lấy cái nón – Ở nhà trông em nhá! Đừng có đi đâu đấy. Ông lão giơ tay chỉ lên nhà trên – Nó thì rút ruột ra, biết chửa! Dứt lời, ông bước vội ra ngoài. Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ dạt cả vào các khoảnh bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả. Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng, cái đầu cung cúc[4] lao về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười – Nắng này là bỏ mẹ chúng nó! Có người bỡ ngỡ hỏi lại “Chúng nó nào?” thì ông lão bật cười, giơ tay trỏ về phía tiếng súng – Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi trong vị trí[5] giờ bằng ngồi tù. Dứt lời, ông lão lại đi, làm như đang bận nhiều công việc lắm. Cũng như mọi hôm, việc đầu tiên là ông vào phòng thông tin nghe đọc báo. Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm hết sức. Ông cũng đã có học một khoá bình dân học vụ[6] ở làng, cũng đã biết đọc, biết viết. Nhưng chữ in khó nhận mặt chữ, ông đọc nó cứ bập bõm, câu được, câu chăng, mà chả lẽ cứ nghếch mãi cổ lên giữ chịt lấy tờ báo không cho người khác xem nữa? Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo cứ lại đọc thầm một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Hôm nay may quá, vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một. Cơ chừng[7] anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy. Ông lão nghe chẳng sót một câu nào. Bao nhiêu là tin hay. Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa. “Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?”. Một anh trung đội trưởng sau khi chết giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt[8] Thao ngay giữa chợ. “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích[9] nữa, chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian; chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp[10]. “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại[11], làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm”. Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Ở đây, những tốp người tản cư[12] mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả dưới mấy gốc đa xù xì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Ông lão ngồi vào một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tưới nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ; bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường và râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ… – Các ông, các bà ở đâu ta lên đấy ạ? Ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời – Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm[13] lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây, vất vả quá! – Ở Gia Lâm lên ạ! Lúa má dưới ta thế nào, liệu có cấy được không bác? – Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu còn tốt hơn trên này nhiều. – Thì vưỡn! Lúa dưới ta tốt nhiều chứ. Ông lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu “Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để”. – Này, bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không? Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào – Nó rút ở Bắc Ninh[14] về qua Chợ Dầu[15], nó khủng bố ông ạ. Ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi – Nó… nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? Người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh – Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian[16] theo Tây còn giết gì nữa! Cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi – Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ tại… – Thì chúng tôi vừa mới ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng, chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam-nhông[17], đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại. Có người hỏi – Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần[18] lắm cơ mà?… – Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy! Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to – Hà, nắng gớm, về nào… Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú – Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đưa một nhát! Ông Hai cúi gầm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm sụi[19] với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên – Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!… Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói[20]? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?… Chiều hôm ấy bà Hai về cũng có vẻ khác. Bà bước từng bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần. Đôi quang thúng thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Bà đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó, rồi lẳng lặng ra bậc cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi. Trẻ con không đưa nào dám vòi quà. Trong nhà có cái im lặng thật là khó chịu, không ai dám cất tiếng lên nói, cả đến nhìn nhau họ cũng không dám nhìn nhau nữa. Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày. – Này, thầy nó ạ. Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì. – Thầy nó ngủ rồi à? – Gì? Ông lão khẽ nhúc nhích. – Tôi thấy người ta đồn… Ông lão gắt lên – Biết rồi! Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. Ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà. – Thế nhưng người ta đồn trên này người ta không chưa những người Chợ Dầu nữa thầy nó ạ. Nghe ngóng một chút, không thấy chồng trả lời, bà lão lại cúi xuống lầm bầm tính. Nét mặt bà lặng đi, chịu đựng và nhẫn nhục. Bên gian bác Thứ đã ngủ từ lâu, chung quanh đều im lặng… Một vài tiếng chó nhúc nhắc sủa phía xa, và có tiếng trẻ khóc văng vẳng trong tiếng gió. Ông Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được… Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ… Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực ông lão đập thình thịch. Ông lão nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài… Bà Hai bỗng lại cất tiếng – Thầy nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã. Ông Hai bật ngóc đầu dậy, giơ tay trỏ lên nhà trên, ông sít hai hàm răng lại mà nghiến – Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ. Ông lão lại ngả mình nằm xuống, không nhúc nhích. Đã ba bốn năm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình[21] bên ngoài ra sao. Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam–nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều. Ấy là mụ chủ nhà. Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng ông khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng về, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, như khía vào thịt ông lão. Thôi thì bây giờ thế nào mà chả phải chịu. Có được chỗ chui ra chui vào là may lắm rồi. Mỗi lần mụ nói, ông lão chỉ cười gượng làm như không biết chuyện gì. Ông thì ông muốn lặng đi như thế, nhưng mụ chủ nhà có để cho ông yên đâu. Sáng hôm sau, lúc bà Hai sắp sửa quang gánh ra hàng thì mụ chủ nhà không biết đi đâu về, mụ đứng dạng háng ở ngoài sân nói chõ vào – Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?… – Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này. – Vâng bà để mặc em… À bà Hai này!… Mụ chạy sát vào bực cửa, thân mật – Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ?… Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng Chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa. Mụ chủ chép miệng, giọng ngọt xớt – Em cứ khó nghĩ quá… ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có lệnh biết làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy… Này, ở với nhau đang vui vẻ, ông bà dọn đi, em lại cứ nhớ đáo để đấy nhớ. Bà Hai cúi mặt xuống rân rấn nước mắt, bà nói – Vâng… thôi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu… Mụ chủ đi rồi, bà Hai và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán. Vợ chồng cũng chẳng dám nói với nhau câu gì. Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?… Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không một gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng[22]… đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi[23]. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu. “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…”, cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông. Hay là quay về làng?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra. Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Ông lão nghĩ ngay đến mấy thằng kì lí[24] chuyên môn khua khoét ngày trước lại ra vào hống hách ở trong cái đình. Và cái đình lại như của riêng chúng nó, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he, hóc hách một tí thì chúng nó tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất ngôi, trừ ngoại[25], tống ra khỏi làng… Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à? Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi – Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai? – Là con thầy mấy lị con u. – Thế nhà con ở đâu? – Nhà ta ở làng Chợ Dầu. – Thế con có thích về làng Chợ Dầu không? Thằng bé nép vào ngực bố trả lời khe khẽ – Có. Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi – À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt – Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ – Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai[26]. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vợi đi được đôi phần. Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, có một người đàn ông đến chơi nhà ông Hai. Hắn cũng là người làng Chợ Dầu. Hai người thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy ông Hai đóng khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn đi. Ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà. Ông Hai đi mãi đến sẩm tối mới về. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ, ông lão đã lên tiếng – Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào. Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão rút vội cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn – Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái. Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang gian bên bác Thứ. Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô – Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính[27], ông ấy cho biết… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích[28] cả. Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lại lật đật bỏ lên nhà trên. – Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng co gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả! Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải để cho người khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người. Ai ai cũng mừng cho ông lão. Đến cả mụ chủ nhà là người ông lão yên trí nghe tin này thế nào mặt mụ cũng sa sầm xuống mà nói tức nói xóc, thì trái lại, mụ lại tỏ vẻ rất vui sướng. Mụ giương tròn cả hai mắt lên mà reo – A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao nhiêu. Mụ cười khì khì – Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng đấy!… Ông Hai gật gật – Được, được, chuyến này rồi phải nuôi chứ… Tối hôm ấy, ông Hai lại sang bên gian bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông. Ông kể lại hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao thằng, bao nhiêu Tây bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, rành rọt, tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật… Chú thích. [1] Sắn ở miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ gọi là mì hoặc khoai mì. [2] Bông phèng nói đùa một cách dễ dãi, không cần có ý nghĩa. [3] Khướt có hai nghĩa 1. Mệt lắm, vất vả lắm; 2. Từ biểu thị mức độ rất cao của một tính chất, trạng thái. Ở đây dùng với nghĩa thứ nhất. [4] Cung cúc dáng đi cắm cúi và nhanh, vội. [5] Vị trí ở đây nói tắt vị trí đóng quân hay đồn, bốt. [6] Bình dân học vụ phong trào dạy chữ quốc ngữ, thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân lao động sau Cách mạng tháng Tám 1945 và trong thời kì kháng chiến chống Pháp. [7] Cơ chừng từ biểu thị ý phỏng đoán như chừng như, có lẽ, chắc là. [8] Bốt phiên âm từ tiếng Pháp đồn nhỏ hoặc trạm gác đồn vị trí đóng quân cố định, được xây dựng kiên cố. Bốt ở đây là đồn địch. [9] Đột kích đánh bất ngờ, nhanh chóng. [10] Xe díp díp phiên âm từ tiếng Pháp xe quân sự nhỏ, thường dùng chở sĩ quan. [11] Tích tiểu thành đại góp nhiều cái nhỏ thành cái lớn. [12] Tản cư tạm rời nơi cư trú để đến ở vùng khác, chủ yếu vì chiến sự. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, nhân dân ở những vùng bị giặc chiếm hoặc có chiến sự ác liệt thường tản cư đến những vùng tự do, dưới sự kiểm soát của chính quyền kháng chiến. [13] Gia Lâm huyện ở phía Nam tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Hà Nội. [14] Bắc Ninh tỉnh phía Bắc ở Hà Nội, tỉnh lị bắc Ninh cách Hà Nội khoảng 30 km. [15] Chợ Dầu làng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, có tên chữ là Phù Lưu. Làng Phù Lưu nổi tiếng về sự sầm uất, trù phú, đường làng lát toàn đá xanh. [16] Việt gian từ để chỉ những kẻ là người Việt Nam nhưng theo giặc, chống lại Tổ quốc. [17] Cam-nhông phiên âm từ tiếng Pháp xe vận tải quân sự, dùng chở binh lính hoặc vũ khí, quân trang. [18] Tinh thần ở đây là cách nói tắt, chỉ tinh thần hăng hái kháng chiến. [19] Chơi sậm chơi sụi chơi một cách lặng lẽ, kín đáo. [20] Không có lửa làm sao có khói thành ngữ biểu thị sự khẳng định nguyên nhân hay tính xác thực của một hiện tượng, sự việc. [21] Binh tình nghĩa gốc là tình hình quân sự, nhưng thường được dùng với nghĩa mở rộng là tình hình nói chung. Ở đây dùng với nghĩa mở rộng. [22] Đài, Nhã Nam, Bố Hạ, Cao Thượng những địa danh thuộc tỉnh Bắc Giang, đều là những nơi thuộc vùng trung du hay vùng rừng núi. [23] Hủi bệnh phong tiếng địa phương miền Nam gọi là cùi. [24] Kì lí kì mục và hào lí – những người nắm giữ chức quyền, có vai vế trong làng xã cách mạng thời trước Cách mạng tháng Tám hội đồng kì mục bao gồm những người già có ngôi thứ trong làng xã; hào lí kẻ có chức vị, quyền thế ở làng xã. [25] Truất ngôi, trừ ngoại truất khỏi ngôi thứ trong làng xã, không được tham dự vào mọi hoạt động ở chốn đình trung. Đây là một hình phạt nặng với những người dân ở làng quê xưa. [26] Đơn sai không giữ đúng như lời, thiếu trung thực, thay lòng đổi dạ. [27] Cải chính sửa lại, nói lại cho đúng sự thật. [28] Sai sự mục đích dùng với nghĩa là sai sự thật. Chính ra phải dùng từ mục kích nhìn thấy rõ ràng, tận mắt. Tác giả để cho ông Hai thích nói chữ, nhưng dùng từ không chính xác. Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Văn bản truyện khi đưa vào Sách giáo khoa có lược bỏ phần đầu phần giới thiệu về hoàn cảnh phải rời làng lên nơi tản cư của ông Hai và cái tính thích khoe làng của ông. Nguồn Kim Lân, Văn tuyển tập 1945 – 1956, NXB Văn nghệ, Hà Nội, 1956. LUYỆN TẬP. Câu 1 Truyện ngắn Làng đã xây dựng được một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước ở nhân vật ông Hai. Đó là tình huống nào? Câu 2 Thuật lại diễn biến tâm trạng và hành động cùa ông Hai từ lúc nghe làng mình theo giặc đến kết thúc truyện. Câu 3 Vì sao ông Hai lại trò chuyện như thế với đứa con nhỏ? Qua những lời trò chuyện ấy, em cảm nhận được điều gì về tấm lòng của ông Hai đối với làng quê, đất nước, với cuộc kháng chiến. Tình yêu làng quê và lòng yêu nước ở ông Hai có quan hệ như thế nào? Câu 4 Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý và ngôn ngữ nhân vật ông Hai của tác giả. Câu 5 Chọn và phân tích một đoạn miêu tả tâm lí nhân vật trong Hai trong truyện. Trong đoạn ấy, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả tâm lí nhân vật. Câu 6 Em còn nhớ truyện ngắn hay bài thơ nào cũng viết về tình cảm quê hương, đất nước? Hãy nêu nét riêng của truyện Làng so với những tác phẩm ấy. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân Soạn bài Câu 1 – Tác giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tề mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư qua vùng ông. Câu 2 Diễn biến tâm trạng và hành động cùa ông Hai từ lúc nghe làng mình theo giặc đến kết thúc truyện. * Diễn biến tâm trạng ông Hai. – Khi nghe tin quá đột ngột ấy, ông Hai sững sờ “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông không thế không tin. – Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt mà đi”=, về đến nhà, ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó củng là trẻ con làng Việt gian dấy ư. Chúng nó củng bị người ta ré rủng hắt hủi đấy ư?” – Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. – Ông Hai đã dứt khóat lựa chọn theo cách của ông. Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù. Tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, thế mà càng đau xót, tủi hổ. – Khi đi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không theo giặc ông Hai như được hồi sinh “cái mặt bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. * Lí giải Sở dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Thế mà, đùng một cái ông nghe được cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớm, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là “chuyện ấy”. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không dám bước chân ra đến ngoài” vì xấu hổ. Câu 3 * Ông trò chuyện với đứa con nhỏ vì – Ông lựa chọn cách nói chuyện với đứa con út, vì nó nhỏ tuổi, ngây thơ, dễ nói chuyện, dễ bày tỏ. – Đây là một đoạn đối thoại mà như độc thoại rất cảm động, bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc, bền chặt vói quê hương, đất nước, với kháng chiến của ông Hai. Nói với con mà thực chất ông đang tự nhủ với lòng mình, tự giãi bày, tự minh oan. * Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, thực chất là lời tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi lòng mình, ta thấy rõ ở ông Hai + Tình yêu sâu nặng với cái làng Chợ Dầu của ông ông muốn đứa con nhỏ ghi nhớ câu “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”] + Tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Tình cảm ấy là sâu nặng, bền vững và thiêng liêng “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chêt thì chết có bao giờ dám đơn sai. ”. * Mối quan hệ tình yêu làng và tình yêu nước Lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến được đặt cao hơn và chi phối mọi tình cảm, hành động của ông. Câu 4 – Tác giả đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. – Miêu tả cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ… Đặc biệt, tác giả diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người và thế giới tinh thần của con người, đặc biệt là người nông dân. II. Luyện tập Câu 1 Chọn và phân tích một đoạn miêu tả tâm lí nhân vật trong Hai trong truyện. Trong đoạn ấy, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả tâm lí nhân vật. * Đoạn văn “Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi …. – Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ Chí Minh con nhỉ” * Phân tích Đoạn đối thoại này đã biểu hiện tình cảm thiêng liêng và sâu nặng của ông Hai với quê hương, đất nước, với kháng chiến. Trò chuyện với đứa con thực chất là cách ông tự thổ lộ nỗi lòng thủy chung của mình với làng quê, với kháng chiến. – Nghệ thuật Hình thức đối thoại nhưng mang tính chất độc thoại. Câu 2 Em còn nhớ truyện ngắn hay bài thơ nào cũng viết về tình cảm quê hương, đất nước? Hãy nêu nét riêng của truyện Làng so với những tác phẩm ấy. – Những truyện ngắn, bài thơ viết về tình cảm quê hương, đất nước Tre Việt Nam – Nguyễn Duy, Quê hương – Giang Nam. – Nét riêng của truyện ngắn Làng tình cảm quê hương đất nước được đặt trong sự gắn bó khăng khít với nhau, hòa quyện, thống nhất với nhau, tình cảm ấy được làm nổi bật lên trong hoàn cảnh cụ thể là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Tóm tắt Ông Hai là người nông dân yêu và tự hào về làng chợ Dầu của mình nhưng vì chiến tranh và hoàn cảnh gia đình nên ông phải đi tản cư. Một hôm nghe ngóng được tin làng Dầu theo Tây. Tin dữ bất ngờ, ông xúc động nghẹn lời rồi chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi về. Về nhà, ông nằm vật ra, ai nói gì cũng tưởng họ bàn tán về làng mình. Khi cùng đường, ông chớm có ý định quay về làng nhưng rồi ông lại xác định “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi chủ tịch xã lên cải chính làng Dầu không theo Tây, ông sung sướng đi khoe với tất cả mọi người. Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân
Đọc hiểu kiến thức truyện ngắn “Làng” của Kim Lân Đề bài 1 Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi “Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói ? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn với giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?…” Trích “Làng” – Kim Lân Câu 1. Đoạn văn diễn tả tâm tạng nhân vật ông Hai trong hoàn cảnh nào ? Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng của hình thức độc thoại nội tâm trong đoạn trích trên ? Câu 3. Em hiểu gì về nhân vật ông Hai trong đoạn trích trên ? Câu 4. Viết một đoạn văn nghị luận khoảng 10-15 dòng nêu suy nghĩ của em về tình yêu quê hương đất nước. * Hướng dãn trả lời Câu 1. Đoạn văn diễn tả tâm trạng nhân vật ông Hai sau khi nhe tin đồn nhảm làng Chợ Dầu theo Tây đi Việt gian. Câu 1. Tác dụng của hình thức độc thoại nội tâm Làm nổi bật tâm trạng đớn đau, day dứt của nhân vật ông Hai sau khi nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo Tây. Câu 1. Tâm trạng đau đớn, day dứt, tủi thẹn của ông Hai sau khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây cho ta thấy ông Hai là người yêu làng, yêu nước nồng nàn, sâu sắc của ông Hai. Câu 1. Đoạn văn đảm bảo yêu cầu sau + Giải thích được về tình yêu quê hương Là tình cảm gắn bó, yêu mến, vun đắp, dựng xây quê hương ngày càng giàu đẹp. + Khẳng định đây là tình cảm thiêng liêng cao quý vì quê hương là cái nôi đầu tiên đón nhận tiếng khóc chào đời, những bước đi chập chững, gắn với ký ức tuổi thơ. + Các biểu hiện của tình yêu quê hương Nỗi nhớ thường trực trong mỗi lần xa quê, yêu những gì thuộc về mảnh đất mà mình sinh ra, yêu con người thuộc về mảnh đất đó, có những hành động thiết thực để xây dựng quê hương… + Phê phán những người quên đi nguồn cội, quên đi quê hương. + Bài học nhận thức và hành động Học tập tốt để trở thành người công dân có ích xây dựng quê hương… * HS trình bày những suy nghĩ của bản thân về lòng dũng cảm của tuổi trẻ Việt nam hiện nay. Chấp nhận những suy nghĩ, kiến giải riêng của các em miễn là thuyết phục. * Yêu cầu về hình thức đúng thể loại nghị luận về một tư tưởng, đạo lý, đủ số dòng theo yêu cầu. Đề bài 1 Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi “Ông nằm vật trên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. Ồ, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng bông phèng, cũng đào hà, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào hào đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa ? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm. Chao ôi ! Ông lão nhớ nhớ làng, nhớ cái làng quá.” “Làng” – Kim Lân Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt chính nào ? Câu 2. Dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật ông lão được thể hiện qua việc nhắc lại các từ, cụm từ nào trong đoạn trích ? trong dòng cảm xúc, suy nghĩ ấy có những kỷ niệm nào của ông về làng kháng chiến? Câu 3. Tình yêu quê hương là một tình cảm thiêng liêng, cao quý. Em hãy nêu suy nghĩ của mình về tình cảm đối với quê hương. * Hướng dẫn trả lời Câu 1 Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt chính Biểu cảm. Câu 2. – Dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật được thể hiện qua việc lặp lại các từ “nghĩ”, “muốn”, “nhớ”. – Những kỷ niệm trong trong dòng cảm xúc của nhân vật . + Kỷ niệm gắn với những con người ở làng, những anh em cùng nhau làm việc, cùng đào đường đắp ụ, xẻ hào , khuân đá… phục vụ kháng chiến. + Kỷ niệm về những hoạt động, về niềm vui say trong thời kỳ kháng chiến. + Kỷ niệm gắn liền với những địa danh cụ thể ở làng kháng chiến cái chòi gác đang dựng, những đường hầm bí mật Câu 3 HS có thể nêu các ý sau – Giải thích + Có thể giải thích theo cách hiểu của học sinh về quê hương + Biểu hiện về tình cảm, tình yêu của con người với quê hương khi ở quê , xa quê… – Vì sao con người cần phải có tình cảm với quê hương . + Đó là nơi ta sinh ra, lớn lên và gắn bó với biết bao kỷ niệm trong cuộc đời . + Đó là nơi ta trở về sau nhiều năm ngược xuôi. – Bàn luận và mở rộng + Nhận thức tình cảm của mỗi người với quê hương + Thái độ Ca ngợi những người có tình cảm, gắn bó sâu nặng với quê hương và phê phán với những người chưa có tình cảm gắn bó với quê hương. + Bài học, liên hệ với bản thân. Phân tích sự chuyển biến từ tình yêu làng đến tình yêu nước của nhân vật ông Hai qua truyện ngắn Làng của Kim Lân
truyện ngắn kim lân